Kem đánh răng và những điều cần biết

Kem đánh răng là một chất tẩy sạch răng dạng hỗn hợp nhão hay gel được sử dụng với bàn chải đánh răng như một phụ kiện để tẩy sạch, duy trì thẩm mỹ và sức khoẻ của răng.

Kem đánh răng dùng để thúc đẩy vệ sinh răng miệng: được dùng làm chất mài mòn để loại bỏ mảng bám răng và thức ăn khỏi răng, giúp ngăn ngừa chứng hôi miệng và cung cấp thành phần hoạt động (thường là florua) giúp ngăn ngừa sâu răng và viêm nướu

Muối và natri bicacbonat (soda nung) là những chất liệu có thể thay thế cho kem đánh răng thương mại. Kem đánh răng không nuốt được do hàm lượng chất florua, nhưng nói chung không gây hại gì nếu nuốt vào số lượng nhỏ.

Người Hy Lạp cổ đại và tiếp sau đó La Mã cổ đại, đã cải tiến công thức chế biến kem đánh răng bằng cách thêm chất mài mòn như xương nghiền và vỏ sò.

Vào thế kỷ thứ 9, nhạc sĩ Iraq và nhà thiết kế thời trang Ziryab đã phát minh ra một loại kem đánh răng, mà ông đã phổ biến rộng khắp khắp vùng Hồi giáo Tây Ban Nha  thành phần chính xác của kem đánh răng này không rõ ràng, nhưng được báo cáo rằng cả hai “chức năng và hương vị dễ chịu”.

 Không biết liệu kem đánh răng sơ khai này sử dụng đơn nhất hay không, hay được cọ xát vào răng bằng những miếng giẻ rách, hoặc được sử dụng với bàn chải đánh răng sớm như cành cây sầu đâu và miswak. Kem hay bột đánh răng được sử dụng rộng rãi vào thế kỷ 19.

Thành Phần

Ngoài nước chiếm 20-42%, kem đánh răng có nguồn gốc từ nhiều thành phần khác nhau, ba loại chính là chất mài mòn, chất florua và chất tẩy rửa.

Chất mài mòn

Chất mài mòn chiếm ít nhất 50% loại kem đánh răng thông thường. Những hạt không hòa tan này giúp loại bỏ mảng bám khỏi răng. Loại bỏ mảng bám và vôi răng giúp giảm tối thiểu sâu răng và bệnh nha chu. Chất mài mòn đại diện bao gồm các hạt nhôm hydroxit (Al(OH)3), canxi cacbonat (CaCO3), các canxi hydro photphat (CaHPO4) khác nhau, các silic và zeolit khác nhau và hydroxyapatit (Ca5(PO4)3OH).

Chất mài mòn, giống như chất đánh bóng nha khoa được sử dụng trong phòng mạch nha khoa, cũng gây ra số lượng nhỏ xói mòn men được gọi là hành động “đánh bóng”. Một số nhãn hiệu có chứa mica trắng dạng bột, hoạt động như chất mài mòn nhẹ và cũng bổ sung tính trang điểm đem đến độ lung linh lấp lánh cho kem. Đánh bóng răng sẽ loại bỏ vết bẩn khỏi bề mặt răng, nhưng không thể chứng minh cải thiện được sức khoẻ răng miệng trong và ngoài hiệu quả khi loại bỏ mảng bám và vôi răng.

Tác dụng mài mòn của kem đánh răng được biểu thị theo giá trị RDA. Giá trị RDA quá cao cần được xem điểm giới hạn và một số nha sĩ đề nghị kem đánh răng có giá trị RDA không cao hơn 50 cho sử dụng hàng ngày.

Florua

Florua dưới nhiều hình thức là thành phần hoạt chất phổ biến nhất trong kem đánh răng để ngăn ngừa sâu răng. Florua có số lượng nhỏ trong thực vật, động vật và một số nguồn nước tự nhiên. Chất florua bổ sung trong kem đánh răng có tác dụng tốt đối với quá trình hình thành men răng và xương. Natri florua (NaF) là nguồn florua phổ biến nhất, nhưng florua stannal (SnF2), olaflur (muối hữu cơ florua) và natri monofluorophosphate (Na2PO3F) cũng được sử dụng. Florua Stannide đã được chứng minh có hiệu quả hơn natri florua để giảm tỷ lệ mắc bệnh sâu răng và kiểm soát bệnh viêm nướu, nhưng gây ra nhiều vết bẩn bề mặt hơn.

Phần lớn kem đánh răng được bán ở Hoa Kỳ có từ 1.000 đến 1.100 phần mỗi triệu florua. Ở các nước châu Âu, như Anh hoặc Hy Lạp, hàm lượng florua thường cao hơn; hàm lượng NaF 0,312% w/w (1.450 ppm florua) là phổ biến.

Chất hoạt động bề mặt

Rất nhiều, mặc dù không phải tất cả, kem đánh răng có chứa natri lauryl sunfat (SLS) hoặc chất hoạt động bề mặt có liên quan (chất tẩy rửa). SLS cũng được tìm thấy trong nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân khác, chẳng hạn như dầu gội và chủ yếu là chất tạo bọt, cho phép phân phối đồng đều kem đánh răng, cải thiện khả năng tẩy sạch.

Mặc dù các thành phần khác nhau trong kem đánh răng, nghiên cứu gần đây (phân tích meta) cho biết chải răng có hoặc không có kem đánh răng không ảnh hưởng đến mức độ loại bỏ mảng bám.

Các thành phần khác

Chất kháng khuẩn

Triclosan, một chất kháng khuẩn, là một thành phần kem đánh răng phổ biến ở Anh. Triclosan hoặc kẽm clorua ngăn ngừa viêm nướu, theo Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ, giúp làm giảm cao răng và hơi thở hôi. Một nghiên cứu lâm sàng năm 2006 đã kết luận có bằng chứng cho biết hiệu quả của 0,30% triclosan giảm bớt mảng bám và viêm nướu.

Hương vị

Kem đánh răng có nhiều màu sắc và hương liệu nhằm khuyến khích người dùng sản phẩm. Ba loại hương vị phổ biến nhất là bạc hà cay, bạc hà lục và lộc đề. Kem đánh răng có hương vị dầu bạc hà-hồi cần cũng phổ biến ở khu vực Địa Trung Hải. Những hương vị này được cung cấp bởi các loại dầu tương ứng, ví dụ: tinh dầu bạc hà. Nhiều hương vị lạ hơn bao gồm hồi cần Anethole, quả mơ, kẹo cao su thổi, quế, hồi hương, oải hương, sầu đâu, gừng, vani, chanh, cam và thông. Ngoài ra, kem đánh răng không hương vị cũng tồn tại.

Chất khử khoáng

Tinh thể nano Hydroxyapatite và những loại canxi photphat được đưa vào trong công thức chống khoáng hóa, tức là cải tạo men răng.

Hợp chất pha tạp

Các tác nhân được thêm vào để làm giảm xu hướng kem đánh răng khô hóa thành bột. Bao gồm cồn đường khác nhau, như glyxerol, sorbitol hoặc xylitol, hoặc các dẫn xuất có liên quan, như 1,2-propylen glycol và polyethyleneglycol. Clorua strontium hoặc kali nitrat được bao gồm trong một số loại kem đánh răng để giảm độ nhạy. Natri poly-photphat được thêm vào để giảm thiểu sự hình thành cao

Cách sử dụng:

Bôi kem đánh răng lên mặt lông của bàn chải một lượng vừa đủ và chải nhẹ nhàng lên răng. Đánh răng xong súc miệng lại bằng nước sạch. Nên đánh răng sau khi ăn xong, tối trước khi đi ngủ và sáng sau khi thức dậy, ít nhất hai lần mỗi ngày. Để tránh làm tổn thương men răng, hãy chọn bàn chải tốt, sáu tháng thay một lần để đảm bảo vệ sinh lông bàn chải, tránh nhiễm khuẩn.